Bà ta nhớ rõ cha đã gắng gượng trước khi suy sụp, dặn dò với hơi thở yếu ớt: “Chuyện này xảy ra ở học đường... Ta không thể chối bỏ trách nhiệm của mình, đêm qua cũng là ta đã đồng ý cho nữ nhi đi lấy sách, ta chỉ nghĩ là con đang ở huyện nha vẫn chưa về, bây giờ nghĩ lại mới thấy hành động ấy không ổn chút nào. Vũ Nhi, chuyện đêm qua cứ coi như chưa từng xảy ra, chờ thêm một thời gian nữa ta sẽ gả nó đi thật xa, con cứ về nhà đi, thu dọn đồ đạc rồi đến Kinh châu, đừng bao giờ quay trở lại huyện nha Giang Lăng nữa.”
Tuần phu nhân nhớ đến đây thì gào khóc vì tức giận: “Ta không ngờ đấy lại là lần cuối cùng ta được gặp cha ta, ông ấy qua đời ngay sau khi ta và Tuần Vũ rời đi, là ta đã khiến ông ấy tức chết. Vì chuyện này mà Tuần Vũ rất hối hận, chủ động giải quyết hậu sự cho cha ta thay ta.”
“Ta ở thôn trang ngoại thành được nửa tháng mới biết cha ta đã qua đời, ta ngất ngay tại chỗ. Mấy ngày sau, lúc ta tỉnh lại bà vú nói với ta là ta đã mang thai...” Tuần phu nhân nói đến đây thì bắt lấy tay áo Tú Nương, lệ trên mi đã ướt đẫm đôi mắt: “Ngươi có thể tưởng tượng ra cảnh một nữ tử yếu ớt mang thai sống một mình bên ngoài không? Ngươi sẽ không bao giờ biết được đâu. Ta đã nghĩ là dựa vào đâu, dựa vào đâu mà gia đình Tuần Vũ hòa thuận, còn ta lại phải ở ngoài chịu cực khổ. Nhũ mẫu cũng chưa từ bỏ ý định, bà ta khuyên ta nên bình tĩnh, chậm rãi chờ đợi thời cơ.”
“Ta cứ thế ở thôn trang kia hai năm, đứa bé sinh ra gầy gò rất đáng thương, nhưng phụ thân của nó lại hoàn toàn không biết gì về nó...”
Những chuyện này đã đè nặng trong lòng bà ta quá lâu, nặng như một cục đá khiến bà ta không thở nổi, dường như nói ra khiến bà ta thoải mái hơn được phần nào.
Tú Nương thấy thế thì hất tay bà ta ra: “Đấy là do ngươi tự làm tự chịu, ngươi còn trách ai được nữa? Ngươi đường đường là nữ nhi của Hàn lâm, cho dù có tìm bừa một lang quân để thành thân cũng rất vẻ vang. Nhưng ngươi lại cứ nhất quyết muốn cướp trượng phu của người khác, tội này không thể tha thứ.” Tú Nương mắng xong thì cố dịu giọng đến gần hỏi: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó...” Tuần phu nhân suy sụp ngồi dưới đất, hít một hơi thật sâu, sắc mặt trở nên lạnh lùng: “Ta chờ đợi hai năm, trong một lần vào thành mua đồ, ta vô tình nghe thấy tin thôn Tú Thuỷ xảy ra bệnh dịch. Ta đã nghĩ thầm chẳng phải thôn Tú Thuỷ kia là quê quán của Tuần Vũ sao?”
“Ta nghĩ là ông ấy đã xảy ra chuyện rồi. Cho dù ông ấy có phớt lờ ta, nhưng lòng ta vẫn không thể buông bỏ được ông ấy.” Tuần phu nhân nghiến răng: “Thế nên ta đến huyện nha tìm nữ nhi của Huyện thái gia. Có lẽ là do ông trời tác hợp…”
Tuần phu nhân nói tới đây thì cười cực kỳ quỷ dị, bà ta vẫn luôn nhớ ánh mắt sáng rực của nữ nhi của Huyện thái gia ngày hôm đó: “Diệp tỷ tỷ, ta nói cho tỷ biết đây chính là cơ hội tốt trời ban đấy, muốn bệnh dịch không lây lan thì cách duy nhất đó chính là phong toả thôn trang. Chẳng phải Tuần Vũ đang đi học ở Kinh châu Châu phủ à, lúc này đôi mẹ con yếu đuối kia đang một thân một mình. Ta định sẽ nhân cơ hội này, hoặc là không làm hoặc là phải làm đến cùng, giết chết hai người đấy. Đến khi Tuần Vũ trở về sẽ chỉ nghĩ thôn bị phong toả do bệnh dịch, không thể trách được chúng ta!”
Tuần Duẫn Hòa nghe đến đây, ông ấy nở một nụ cười đáng sợ giống hệt Tuần phu nhân.
Ông ấy biết rõ con đường duy nhất để bảo vệ thê nhi chính là khiến bản thân có được quyền lực cực cao. Vì thế ông ấy dốc sức, học tập chăm chỉ cực khổ, chỉ mong có một ngày có thể đến Quốc Tử Giám tham gia khoa khảo, đưa thê nhi rời khỏi Kinh châu.
Nhưng ông ấy không đoán được, Huyện thái gia lại điên rồ như thế, ông ta ra lệnh phong toả núi, phóng hoả để ngăn chặn bệnh dịch. Đến khi tai mắt của ông ấy ở huyện nha vội truyền tin đến Kinh châu phủ thì ông ấy đã đến Châu phủ đánh trống trạng cáo trước. Lúc nha môn Châu phủ nghe được tin này thì vội vàng phái người đến huyện Giang Lăng, ngay cả Châu phủ cũng đồng ý phong toả thôn trang nhưng không được phóng hỏa.
Đáng tiếc là đã muộn, lúc ông ấy chạy đến cây cối khắp núi đã cháy thành than, thôn làng vốn xanh mơn mởn nay cũng cháy thành một vùng đen ngòm, đâu đâu cũng có sinh linh đồ thán, vách nát tường xiêu. Những thi thể không còn nguyên vẹn bị cơn mưa to tầm tã gột rửa, trôi xuống dưới chân núi theo một trận sạt lở.
Ông ấy dầm mưa đào ba ngày ba đêm, đào ra được một cái xác bị cháy thành than cùng với một cánh tay nhỏ đeo lắc bạc.
Ông ấy lặn lội đến phủ nha, thế mà chỉ cứu được hai thôn bên cạnh nhưng lại không cứu được thôn của mình.
Một khoảng thời gian sau, ông ấy điên cuồng tìm kiếm những sai phạm của Huyện thái gia, cuối cùng ông ấy cũng tìm được hai điểm yếu vì thế một bức thư trạng cáo được gửi đến Châu phủ. Ông ấy đánh trống ở nha môn Châu phủ ba ngày ba đêm, đôi tay chảy máu đầm đìa, không ăn không uống, liều mạng đến hơi thở cuối cùng để báo thù cho thê nhi. Huyện thái gia đã ở Kinh châu nhiều năm nên không thể dễ dàng lay chuyển được, phải làm sao bây giờ. May mà hai năm qua ông ấy có đề phòng, ông ấy điều tra được người có mâu thuẫn với Huyện thái gia, âm thầm lợi dụng đối phương để vụ án này được đến Kinh thành.
Chưa đến nửa tháng, người ở Kinh thành đến khám xét nhà Huyện thái gia, thôn Tú Thuỷ có ba mươi mạng người, tuy đã ngăn cản được bệnh dịch nhưng vụ án giết người này vẫn khiến người ta thấy ghê sợ. Án sát sứ mới đến là một người có tính cách thẳng thắn, không nịnh bợ ai nên người đấy đã phán hình phạt treo cổ, thê nữ của Huyện thái gia thì bị đày đến biên cương làm nô lệ.
Thê nữ đã chết, khi đó ông ấy không còn thiết tha gì với cuộc đời, càng không có động lực để tham gia khoa khảo. Ông ấy đã định sẽ bỏ lại tất cả mọi thứ để khiến đối phương nợ máu phải trả bằng máu.
Có lẽ là do ông trời không muốn ông ấy đi đến bước đường cùng, thê nữ của Huyện thái gia kia lại chết dọc đường đi đày.
Khi ông ấy trở về Giang Lăng trong tình trạng suy sụp, lại nhìn thấy Diệp thị dắt một tiểu nữ nhi mới hơn một tuổi đứng trước cửa thành.
Ngày hôm đó tuyết rơi dày đặc, đứa nhỏ gầy gò, ngồi run rẩy cạnh chân mẫu thân làm ông ấy nhớ đến Nam Nam ngóng trông ông ấy về nhà khiến lòng ông ấy đau nhói.
Diệp thị quỳ dưới chân ông ấy, không để tâm đến danh phận, chỉ cầu xin ông ấy cho bà ta một chỗ dung thân, tiểu nữ nhi mở to đôi mắt như quả nho gọi một tiếng cha lanh lảnh.
Tuần Duẫn Hòa tuyệt vọng nhắm mắt lại.
Nỗi hổ thẹn với ân sư hòa cùng với nỗi hổ thẹn đối với Diệp thị và hài tử, cuối cùng ông ấy đón nhận hai mẹ con bọn họ, nhưng đến hôm nay ông ấy mới biết hoá ra từ đầu đến cuối Diệp thị có liên quan đến vụ án kia.
Chỉ nghe thấy Tú Nương trong phòng nói: “Lúc Huyện thái gia đốt thôn thì ngươi đang ở đâu?”
Cơ thể Tuần phu nhân run lẩy bẩy, né tránh ánh mắt nóng rực của nàng ấy.
“Lẽ nào ngươi trơ mắt nhìn hai mẹ con bọn họ chôn thây trong biển lửa?”
Hai chữ “trơ mắt” đột nhiên khiến ký ức tuôn ra, Tuần phu nhân ôm tay, cơ thể run bần bật vì lạnh: “Ta... Ta... Ta không thể làm được gì.” Bà ta khóc đến nỗi mất khống chế.
“Không thể làm được gì?” Tú Nương giống như đang nghe thấy trò cười của thiên hạ: “Lẽ nào là ông trời bắt ngươi giết người à?”
Hai chữ “giết người” đánh vào dây thần kinh mong manh nhất trong lòng Tuần phu nhân. Bà ta giống như bị cuốn vào một vòng nước xoáy đen ngòm, một vòng xoáy nước mà sau khi nhảy xuống, dù cho có giãy dụa thế nào cũng không thể thoát được, đối diện với đôi mắt giống mắt Chương thị của Tú Nương, tinh thần bà ta hoàn toàn sụp đổ.
“Nữ nhi của Huyện thái gia tự dẫn người đến thôn Tú Thuỷ, đổ một trăm thùng dầu khắp sườn núi, chỉ cần châm lửa là tất cả mọi thứ sẽ bị thiêu rụi hoàn toàn, quan binh huyện nha đốt khe suối nơi có tình hình bệnh dịch nặng nhất. Tiếc là được nửa đường lại có quan binh chạy đến nói phủ nha ra lệnh không được tiếp tục phóng hỏa, Tuần gia là một trong hai hộ duy nhất sống ở khu vực thung lũng sâu trong núi, cách chỗ phóng hoả hơi xa. Ta còn có thể làm gì khi thấy kế hoạch đã sắp sửa thành công rồi đây?”
Bà ta điên cuồng quát: “Ta nhân lúc không có ai đề phòng, không màng tất cả chạy đến cửa nhà ông ấy, không hề do dự vứt cây đuốc xuống khiến ngọn lửa bùng lên thiêu đốt.”
Nghe thấy câu này, cuối cùng Tuần Duẫn Hòa đang hồn xiêu phách lạc cũng không thể nào nhịn được nữa. Đôi mắt đỏ ngầu chất chứa đầy hận thù, ông ấy nhanh chóng tiến về phía trước, đá tung cửa, xông vào bóp cổ Tuần phu nhân:
“Ngươi là đồ độc phụ!”
Vậy mà ông ấy lại để hung thủ giết thê làm người đầu ấp tay gối với ông ấy. Ông ấy đúng là kẻ đáng chết! Lý trí của Tuần Duẫn Hòa đã bị sự thù hận và hối hận bao phủ giống như đang chao đảo trong chảo dầu.
Lần này ông ấy dùng hết sức lực, cổ họng của Tuần phu nhân bị bóp chặt. Thậm chí, bà ta còn không kịp nhìn rõ xem là ai đang bóp cổ mà đã ngất xỉu ngay lúc ấy. Khi thấy người sắp sửa bị Tuần Duẫn Hòa bóp chết, hai thị vệ chạy như bay vào, lần lượt túm lấy hai cổ tay ông ấy, bắt ông ấy thả Tuần phu nhân ra.
Ngay sau đó, Đại lý Tự thiếu khanh Lưu Việt cũng nhảy vào đứng chắn trước mặt ông ấy khuyên ngăn: “Tuần đại nhân, ngài đường đường là Thủ phụ, sao có thể làm bẩn tay mình vì loại độc phụ như này được!”
“Người đâu, áp giải bà ta đi, mang về nha môn thẩm vấn!”
Thị vệ vừa mang Tuần phu nhân ra ngoài vừa đâm một kim vào gáy bà ta, Tuần phu nhân run bần bật, nghển cổ lên trên, tỉnh dậy.
Trước mặt bà ta có rất nhiều thị vệ, những ngọn đuốc nối đuôi nhau, từng khuôn mặt quen thuộc được chiếu sáng bởi ngọn đèn dầu, có người khinh thường, có người lại mỉa mai hoặc là chán ghét. Nhưng chỉ có người kia, đôi mắt ông ấy giống như hai cái lọ máu, đứng một mình sừng sững trên bậc thang, không thèm nhìn bà ta lấy một cái giống như thể bà ta là một thứ gì đó rất dơ bẩn.
Tuần phu nhân nhìn thấy rõ bóng dáng Tuần Duẫn Hòa, tất cả may mắn đều bị xoá sạch trong phút chốc, cơ thể bà ta mềm oặt.